Phong tục Tên người Nhật

Đoạn viết này không được chú giải bất kỳ nguồn tham khảo nào. Mời bạn giúp hoàn thiện đoạn viết này bằng cách bổ sung chú thích tới các nguồn đáng tin cậy. Các nội dung không có nguồn có thể bị nghi ngờ và xóa bỏ.

Trong thời cổ xưa, người dân Nhật Bản được coi là tài sản của Nhật hoàng và tên của họ phản ánh vai trò trong chính quyền mà họ phục vụ. Một ví dụ là Ōtomo (大友 'kẻ hầu cận tuyệt vời, người đồng hành'). Tên cũng sẽ được ban cho trong việc công nhận các thành tựu và đóng góp to lớn.

Cho tới Minh Trị Duy tân, người dân Nhật thông thường (những người không phải kugesamurai) không có họ, và khi cần thiết, họ dùng các cụm thay thế, chẳng hạn như tên của nơi sinh của họ. Ví dụ, Ichirō sinh ở Asahi-mura (làng Asahi) ở tỉnh Musashi sẽ được nói là "Ichirō từ Asahi-mura của Musashi". Thương nhân được đặt tên theo cửa hàng hoặc thương hiệu của họ (ví dụ, Denbei, chủ sở hữu của Sagamiya, sẽ gọi là Sagamiya Denbei), và nông dân được đặt tên theo người cha của họ (ví dụ, Isuke, có cha là Genbei, sẽ gọi là "Isuke, con của Genbei"). Sau Minh Trị Duy tân, chính phủ ra lệnh cho mọi dân thường bổ sung thêm họ vào sau tên riêng của họ, như một phần của công cuộc hiện đại hoá và Tây phương hoá; điều này đã được quy định trong Luật Đăng ký Gia đình năm 1898.[5] Nhiều người chấp nhận tên gọi lịch sử, một vài người khác chỉ việc tạo ra tên mới, chọn tên qua bói toán, hoặc có một tu sĩ Thần đạo hoặc tăng ni Phật giáo chọn một họ cho họ. Điều này phần nào giải thích số lượng lớn các họ tại Nhật Bản, cũng như sự vô cùng đa dạng của họ về cách viết và phát âm, và làm cho việc tìm theo dấu vết hiện diện của tổ tiên qua một cột mốc nhất định là một việc vô cùng khó khăn tại Nhật Bản.

Trong giai đoạn khi một cặp cha mẹ điển hình có một vài đứa con, có một thực tế phổ biến là những người con trai sẽ được đặt tên theo số đếm với hậu tố rō (郎, "đứa con trai"). Người con trai đầu sẽ được gọi là "Ichirō", con trai thứ hai sẽ là "Jirō", và cứ thế tiếp tục. Các bé gái thường được đặt tên với hậu tố ko (子, "trẻ con") ở cuối tên riêng; điều này không nên nhầm lẫn với hậu tố hiko ít phổ biến hơn dành cho các bé trai (彦). Cả hai cách đặt tên trên hiện nay đều trở nên ít phổ biến hơn, mặc dù nhiều trẻ em vẫn còn có những cái tên tuân theo những cách này.

Trong khi một số người bây giờ có thể tin điều này, Lafcadio Hearn (xem bên dưới), trong cuốn sách Shadowings, làm nó rõ ràng, rằng ít nhất trong thời gian của tác giả (1880 tới 1905, năm xuất bản), phần kết thúc -ko (子) không chỉ là bất cứ phần nào của tên, mà còn là một hậu tố mang tính kính cẩn như さん -san. Đặc biệt, mặc dù ký tự mang ý nghĩa "đứa trẻ," nó cũng mang ý nghĩa "quý bà," chỉ được sử dụng với phụ nữ tầng lớp thượng lưu, và sẽ là lố bịch nếu sử dụng cho phụ nữ tầng lớp trung lưu hoặc tầng lớp thấp. Khá nhiều những cái tên tương tự đã được sử dụng bởi tất cả các tầng lớp, nhưng Hana-ko được dùng cho người thuộc tầng lớp thượng lưu, trong khi phụ nữ ở tầng lớp thấp hơn sẽ được gọi là O-Hana-san, với tiền tố cũng như hậu tố mang ý tôn kính.

Khi nói với người khác và nói về người khác

Cách thức mà một tên gọi được sử dụng trong cuộc trò chuyện phụ thuộc vào hoàn cảnh và mối quan hệ của người nói với người nghe và người có tên đó. Thông thường, họ được sử dụng, trong khi tên riêng bị giới hạn sử dụng ở mức độ cao trong những tình huống không thân mật và các trường hợp mà người nói lớn tuổi hơn, có chức vụ cao hơn, hoặc rất quen thuộc với cá nhân được có tên đó. Khi xưng hô với ai đó, hoặc đề cập đến một thành viên của một nhóm ngoài nhóm mình, một danh hiệu như さん -san thường được thêm vào.

Người Nhật thường tránh đề cập đến người bậc trên hay cấp trên của mình hoàn toàn bằng tên, chỉ cần sử dụng một danh hiệu: trong một gia đình có thể là một mối quan hệ thân tộc như お母さん okāsan ("mẹ"), trong trường học có thể là 先生 sensei ("giáo viên"), trong khi một chủ tịch công ty sẽ được xưng hô là 社長 shachō ("chủ tịch công ty").

Mặt khác, các cụm đại từ mang nghĩa "bạn" như (あなた anata, きみ kimi, お前 omae) được sử dụng khá ít trong tiếng Nhật. Sử dụng các từ như vậy đôi khi có vẻ thiếu tôn trọng, và mọi người sẽ thường gọi nhau bằng tên, chức danh và kính cẩn ngay cả trong cuộc hội thoại trực tiếp.

Việc gọi tên một người nào đó (họ) mà không có bất kỳ danh hiệu hoặc kính ngữ nào được gọi là yobisute (呼び捨て), và có thể bị coi là thô lỗ ngay cả trong những dịp chính thức và thân thiện nhất. Sự vi phạm quy ước xã hội trong giao tiếp này, tuy nhiên, có thể được bỏ qua dễ dàng đối với người nước ngoài.

Biệt danh

Tương ứng với bất kỳ tên riêng nào có một hoặc nhiều biệt danh rút gọn từ tên, biệt danh trìu mến. Chúng hình thành bằng cách thêm hậu tố -chan ちゃん với một thân từ. Có hai loại thân từ. Một bao gồm phần tên riêng đầy đủ. Các ví dụ của loại này là Tarō-chan từ Tarō, Kimiko-chan từ Kimiko, và Yasunari-chan từ Yasunari. Loại thân từ còn lại là một thân từ được biến đổi xuất phát từ phần tên riêng đầy đủ. Ví dụ về tên như vậy là: Taro-chan từ Tarō, Kii-chan từ Kimiko, và Yā-chan từ Yasunari. Biệt danh rút gọn với thân từ được biến đổi thân mật hơn so với những biệt danh từ tên riêng đầy đủ.

Các biệt danh rút gọn với thân từ được biến đổi có nguồn gốc bằng cách thêm -chan vào một thân từ gồm một số nguyên, thường là một nhưng thỉnh thoảng là hai, các âm tiết, nơi mà một âm tiết bao gồm hai mora. Một mora 音節 là đơn vị trong đó một âm tiết nhẹ có một mora, trong khi âm nặng có hai mora. Ví dụ, các thân từ mà có thể bắt nguồn từ Tarō là /taro/, cấu tạo từ hai âm tiết nhẹ, và /taa/, cấu tạo từ một âm tiết đơn với một trường nguyên âm, tạo ra kết quả là Taro-chan và Tā-chan. Các thân từ có thể bắt nguồn từ Hanako là /hana/, với hai âm tiết nhẹ, /han/, với một âm tiết đóng bằng phụ âm, và /haa/, với một âm tiết với một trường nguyên âm, tạo ra Hanachan, Hanchan và Hāchan. Cụm được lấy thành đoạn thường là cụm con bên trái của tên riêng. Tuy nhiên, trong một số trường hợp nó được đặt bằng một số ý nghĩa khác, bao gồm việc sử dụng cách đọc khác của mẫu tự kanji được sử dụng để viết tên. Ví dụ, một phụ nữ mang tên Megumi có thể được gọi là Keichan hoặc đơn giản chỉ Kei, vì ký tự Megumi được dùng để viết, 恵, cũng có thể đọc là Kei.

Thói quen sử dụng phổ biến để tạo nên từ viết tắt trong tiếng Nhật bằng cách ghép hai morae hoặc hai chữ đôi khi được áp dụng cho tên gọi (thường áp dụng đối với người nổi tiếng). Ví dụ, Kimura Takuya (木村 拓哉, Kimura Takuya?), một nam diễn viên và ca sĩ Nhật nổi tiếng, được đặt biệt danh Kimutaku (キムタク, Kimutaku?). Điều này đôi khi được áp dụng ngay cả với những người nổi tiếng không phải người Nhật: Brad Pitt, có tên tiếng Nhật đầy đủ là Buraddo Pitto (ブラッド・ピット, Buraddo Pitto?) thường được biết với tên Burapi (ブラピ, Burapi?), và Jimi Hendrix được rút gọn thành Jimihen (ジミヘン, Jimihen?). Một vài người Nhật Bản nổi tiếng cũng đã kết hợp tên kanji và katakana, như Terry Ito (テリー伊藤, Terry Ito?). Một phương pháp khác đôi chút ít phổ biến hơn là tăng gấp đôi một hoặc hai âm tiết của tên của người đó, chẳng hạn như việc sử dụng "MamiMami" cho Noto Mamiko.

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Tên người Nhật http://www.csse.monash.edu.au/~jwb/cgi-bin/wwwjdic... http://www.babynames.ch/Info/Language/laJapanese http://japanese.about.com/library/weekly/aa050601a... http://www.japanese-name-translation.com/site/japa... http://www.japanese-name-translation.com/site/top5... http://www.japanorama.com/namesinj.html http://potboilerpress.com/ http://potboilerpress.com/index.php?main_page=prod... http://park14.wakwak.com/~myj/ http://hsblogs.stanford.edu/morrison/